Tên di sản : Đền An Phú
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 138/VHQĐ
Giới thiệu
Đền thờ:
Đền An Phú là một di tích lịch sử - văn hoá được xây dựng từ thời Trần. Theo các cụ trưởng lão trong làng thì trước đây đền được làm bằng tranh tre nứa lá. Sau này đền được xây dựng khang trang bằng gỗ, lợp ngói mùi hài. Tuy nhiên, qua khảo sát những di vật còn lại trên nền đất cũ của đền, những mảnh gốm vỡ, một số gạch và ngói vỡ, ta biết được chắc chắn đền được xây dựng vào thời Lê. Chắc chắn có thể đây là lần trùng tu thứ nhất? Cũng theo các cụ, đền trước đây được kiến trúc theo kiểu chuôi vồ.
Đền An Hoà là nơi thờ thần thiên thần Tích Lịch Đô Quang – vị thánh thứ nhất của đền. Tiếp đến là Vạn Phúc phu nhân (Đức Thánh mẫu), sao cùng là Mai Hoa Công chúa (Đức Thánh bà).
Như vậy, đền An Hoà lịch sử xây dựng hơn 700 năm và được các thế hệ kế tiếp, tu sửa bảo quản, mở rộng nhiều lần, thu hút sự đóng góp nhiều người kể cả vùng của vùng đất Thiệu Hoá cũ. Rõ ràng đền An Hoà có ảnh hưởng rộng và lâu dài trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Đợt kiểm kê di tích năm 1978, có ghi lại một số truyền thuyết chung quanh di tích này. Tích Lịch Đô Quang (Thần Sấm chớp) được tôn làm Thượng đẳng tôn thần. Các triều đại phong kiến Việt Nam kế tiếp nhau phong sắc cho đền. Câu chuyện về vị thần Tích Lịch Đô Quang thực chất là một câu chuyện phản ánh cuộc vật lộn giữa con người với thiên nhiên, với dòng sông Mã, đắp đê, dẫn thuỷ, trồng cây,…
Tích Lịch Đô Quang trở thành một trong ba vị thành hoàng được tôn thờ tại đền và một số nơi khác.
Năm 1964 do những nhận thức không đầy đủ, đền An Phú đã bị dỡ bỏ hoàn toàn.
Năm 1995, được sự đồng ý của chính quyền địa phương nhân dân làng An Hoà đã xây dựng lại ngôi đền thờ lại khang trang, sạch đẹp, trên nền đất cũ bằng nguồn vốn 20 triệu đồng của nhân dân đóng góp.
Đền hiện nay cũng được kiến trúc theo kiểu chuôi vồ một gian tiền đường và hậu cung.
Tiếp giáp với tiền đường là hai nhà được xây dựng theo kiểu giải vũ. Ngoài cùng là bức tường chắn xây bao bọc mặt diện của ngôi đền. Trên bức tường này được xây ba cửa ra vào hình vòm. Cửa giữa rộng, đi vào Bái đường, hai cửa nách đi vào hai nhà giải vũ. Hai nhà giải vũ này dùng làm nơi soạn đồ tế lễ.
Toàn bộ hệ thống mái của di tích bằng loại ngói hoà bình mới.
Đền hướng về phía Tây, trước mặt đền là một sân gạch rộng và thoáng mát.
Nhìn chung khuôn viên của di tích thuận tiện về nhiều yếu tố, gần làng, nằm trên một doi đất cao hơn thế đất của làng. Bốn hướng của đền rộng rãi và thoáng mát.
Hiện vật trong di tích:
Trước đây do tình trạng bảo quản không chu đáo, vì thế những đồ thờ của di tích bị thất lạc và hư hại nhiều.
Gian Hậu cung xây ba bệ thờ. Bệ thờ trên cùng còn một long ngai của đền còn lại. Long ngai này là một đồ thờ quý hiếm của di tích. Đây là một long ngai được trang trí hoa văn hình dáng leo trên các thành vách. Dưới đế của long ngai được chạm trổ hình những con hổ phù. Long ngai trước đây là đặt bài vị của vị thần Tích Lịch Đô Quang.
Bậc thứ hai gồm hai bát hương bằng sứ. Là nơi thờ Thánh Mẫu, Vạn Phúc Phu nhân và Mai Hoa Công chúa.
Đặc biệt trong đền còn có hai phỗng đá quý hiếm nhưng bị mất đầu, hiện vật này cần được phục chế lại và bảo vệ.
Đạo sắc “Vạn Phúc Phu nhân” thời vua Tự Đức phong tặng cho đền. Bát hương đá cổ gồm 3 cái, hai cái tròn, chân đế cao. Một cái hình cánh cung. Đây là ba hiện vật bằng đá quý và hiếm của di tích.
Trong đền còn có các bức đại tự và câu đối. Chính diện: Thánh cung vạn tuế và Thượng đẳng linh từ bằng chữ Hán.